Tại sao pháp luật lại quy định có sự khác biệt trong phương pháp tính thuế GTGT?

Tại sao pháp luật lại quy định có sự khác biệt trong phương pháp tính thuế Giá trị gia tăng ( GTGT)? Tài liệu ôn thi công chức thuế vòng 2. Giúp các bạn hiểu, giải thích rõ các bài tập tự luận ôn thi công chức thuế.

 

Tài liệu này cũng giúp các bạn trả lời câu hỏi : Trình bày các phương pháp tính thuế GTGT. Tại sao pháp luật lại quy định có sự khác biệt trong phương pháp tính thuế GTGT?

Trả lời câu hỏi  Tại sao pháp luật lại quy định có sự khác biệt trong phương pháp tính thuế GTGT?

Về cơ bản, thuế GTGT là thuế thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Dựa trên đối tượng tính thuế là phần chênh lệch giữa giá trị đầu ra và phần giá trị đầu vào tương ứng, pháp luật quy định có 2 phương pháp tính thuế GTGT là …….

+ Thứ nhất: Đối với phương pháp trực tiếp thì khi tính thuế GTGT,ta sẽ căn cứ vào tổng giá trị doanh thu thu về và chi phí bỏ ra,trong đó đã bao gồm cả thuế mà không tách riêng ra làm hai phần: doanh thu tính thuế (chưa có thuế) và thuế. Đối với phương pháp khấu trừ thì khi tính thuế GTGT, phần doanh thu chưa thuếvà thuế được bóc tách ra riêng biệt và theo dõi riêng phục vụ cho mục đích quản lý. Thuế được theo dõi riêng có ưu điểm là có thểtính được tổng thuế phải nộp (khi phát sinh doanh thu) và tổngthuế được khấu trừ (khi phát sinh chi phí) một cách rõ ràng và nhanh chóng.

+ Thứ hai: Thuế phải nộp theo phương pháp trực tiếp không phải thuế gián thu, số thuế phải nộp sẽ trừ vào doanh thu thuần cuối kỳ để xác định kết quả kinh doanh. Trong khi đó, thuế phải nộp theo phương pháp khấu trừ là thuế gián thu, được theo dõi riêng nên không ảnh hưởng đến doanh thu thuần cuối kì.

+ Thứ ba: Tính thuế theo phương pháp trực tiếp sẽ có hiện tượng đánh trùng thuế (tức là đánh nhiều lần thuế trên cùng một mứcdoanh thu), thuế khấu trừ khắc phục được hạn chế này. Lý do pháp luật lại quy định sự khác biệt? Đó là do điều kiện củacác chủ thể chịu thuế GTGT khác nhau, trong đó có điều kiện về kế toán, chứng từ, hóa đơn làm căn cứ tính thuế. Với những đặc điểm, lợi thế của phương pháp khấu trừ thuế, chủ thể nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế phải đạt những điều kiện nhất định: Chủ thể nộp thuế có hoạt động kinh doanh ổn định, chấp hành chế độ hạch toán kế toán, chế độ sử dụng chứng từ hóa đơn theo đúngquy định; Chủ thể phải đăng kí thuế, đã được cơ quan thuế cấp mãsố thuế theo đúng trình tự luật định; Chủ thể phải đăng kí với cơ quan thuế và được cơ quan thuế chấp nhận nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ.

 Do những yêu cầu như vậy, sẽ có những chủ thể kinh doanh không thể đáp ứng được điều kiện về hóa đơn, chứng từ để làm căn cứ tính thuế. Có thể là lo chủ thể đó nhận hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không có khả năng xuất chứng từ hóa đơn hoặc hóađơn không hợp lệ, cũng có thể là do giá thanh toán của chủ thể kođủ căn cứ chứng minh nên không không đủ cơ sở để xác định phần“giá trị tăng thêm”. Chính vì vậy mà pháp luật phải quy định một phương pháp tính thuế GTGT khác phù hợp với những đối tượng này. Đó là phương pháp trừ trực tiếp, theo đó chủ thể nộp thuếtheo phương pháp trực tiếp là các chủ thể mà chưa đủ điều kiện về kế toán, chứng từ, hóa đơn làm căn cứ tính thuế theo phương phápkhấu trừ thuế và cơ sở kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quí.

Với xu hướng đổi mới công tác quản lý thuế, đảm bảosự bình đẳng về nghĩa vụ của các chủ thể nộp thuế, đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế ngày càng lớn và tiến tới ápdụng một phương pháp tính thuế cho tất cả các chủ thể nằm trongdiện nộp thuế GTGT.

Link tải về file gốc ở đây
Tags:

Có thể bạn quan tâm:

One thought on “Tại sao pháp luật lại quy định có sự khác biệt trong phương pháp tính thuế GTGT?

  1. Pingback: check

Leave a Reply

(function($) { $(document).ready(function() { $('header .ux-search-submit').click(function() { console.log('Moew'); $('header form.search_google').submit(); }); }); })(jQuery);